Lịch sử Mitsubishi Pajero, vua của sa mạc
Từ năm 1983-2007, với tổng cộng 12 chiến thắng chung cuộc ở “hạng xe hơi”, 150 chiến thắng chặng, Mitsubishi Pajero đã được đưa vào danh sách Kỷ lục Guiness Thế giới với danh hiệu “Nhà sản xuất giành được nhiều chiến thắng nhất trong cuộc đua Dakar”, và người ta đặt cho nó một cái danh “Ông vua sa mạc” (King of desert)
Cái tên Parejo xuất phát từ một loài mèo quý hiếm ở Nam Mỹ, cái tên này gọi theo tiếng Argentina, hay Chile là Leopadus Pajeros (tên gọi khác là Pamas hay Colocolo).
Nhà Mitsubishi rất thích cái tên Pajero, họ đã đặt tên cho nhiều dòng xe của mình, mặc dù những dòng xe đó không có nhiều liên hệ về cơ khí, máy móc với nhau như: Pajero Mini, Pajero iO, Pajero Junior, hay là Pajero Sport (dòng SUV dựa trên nền tảng bán tải Mitsubishi Triton).
Tuy nhiên cái tên này có thể gây hiểu lầm ở một số quốc gia nên ở thị trường Bắc Mỹ, Tây Ban Nha, châu Mỹ Latinh (trừ Brazil và Jamaica) nó có tên là Montero (xuất phát từ chữ Montiero, nghĩa là Chiến binh núi), còn ở vương quốc Anh nó có tên là Shogun, nghĩa là gì thì chắc anh em biết rồi.
Pajero là một trong bốn mẫu xe Pajero, Triton, Pajero Sport và Pajero iO dùng chung hệ thống dẫn động bốn bánh Super Select, Pajero đi theo định hướng dòng địa hình hạng nặng của Mitsubishi.
Lịch sử của Pajero bắt đầu trước cả thế chiến thứ 2, đó là chiếc Mitsubishi PX33 nguyên mẫu được thực hiện theo yêu cầu của chính phủ Nhật Bản, đây là chiếc sedan đầu tiên được sử dụng hệ dẫn động 4 bánh toàn thời gian đầu tiên của Nhật. Người ta biết đến PX33 khi Mitsubishi giới thiệu tại Paris Motor Show vào tháng 9/2016 khi họ trưng bày cả 2 chiếc xe cạnh nhau.
Tuy nhiên thì vào năm 1937, chính phủ Nhật Bản hủy bỏ dự án và ưu tiên năng lực sản xuất của Mitsubishi cho việc phát triển xe tải và xe bus.
Thế chiến thứ 2 kết thúc, sau một khoảng thời gian sản xuất Mitsubishi Jeep dựa trên hợp đồng hợp tác với Willys nhằm cạnh tranh với Toyota Land Cruiser và Nissan Patrol thì Mitsubishi cảm thấy Jeep không còn hợp với thời đại nên muốn chuyển hướng tự sản xuất SUV cho riêng mình. Tuy nhiên, do thời điểm đó cũng chưa cơ sở nào về mặt kỹ thuật, nên Mitsubishi khởi đầu bằng một vài mẫu concept dựa trên Mitsubishi Jeep, và kết quả là tại triển lãm Tokyo motor show tháng 11/1973 mẫu Pajero prototype đầu tiên đã được ra mắt.
5 năm sau, năm 1978, chiếc Pajero prototype II mới ra mắt, thực tế là chiếc xe khá nhỏ gọn, rất hợp với cái tên liên quan đến loài mèo pajero.
Nội dung video
Pajero 1st generation (1982)
Tháng 10/1981 phiên bản thương mại đầu tiên được ra mắt tại Tokyo Motor Show đánh dấu thay thế hoàn toàn chiếc Mitsubishi Jeep. Đến tháng 5/1982, nó được chào bán chính thức trên thị trường với định vị là một chiếc xe sang trọng, vững chãi và hoàn toàn có thể cạnh tranh với Land Cruiser và Range Rover.
Đầu tiên, dòng xe này chỉ có phiên bản 3 cửa trục cơ sở ngắn.
Nhưng vào năm 1983, Mitsubishi bổ sung thêm phiên bản trục cơ sở dài. Ở thế hệ này, Mitsubishi trang bị cho Pajero đến 7 loại động cơ với dung tích từ 2.0L - 3.0L, gồm cả động cơ xăng và dầu cho cả loại hút khí tự nhiên và tăng áp.
Chỉ sau 3 năm ra mắt, Pajero đã bước lên bục chiến thắng tại giải Dakar Rally năm 1985
Chiếc Pajero thế hệ thứ nhất còn được sản xuất với nhiều hãng khác nhau qua nhiều biến thể khác nhau và được gọi tên khác như Colt Shogun, Dodge Raider, Hyundai Galloper, Jinhui (Kim Huệ), Hawtai/Huatai Jitian (Hoài Đài Tế Thiên).
Trong khoảng 1980-2000, hãng thuốc lá Camel tổ chức các cuộc thi hành trình khám phá bằng xe địa hình gọi là Camel trophy. Cuộc thi này nổi tiếng qua việc sử dụng xe Land Rover, và cũng rất ít thông tin truyền thông cho biết Mitsubishi Pajero đã tham gia hành trình này, nhưng thực tế họ còn có cả một phiên bản đặc biệt với tên gọi “Camel Trophy Edition”
Một điều thú vị là mặc dù các đối thủ sử dụng dòng xe có trục cơ sở dài để gia tăng khả năng vận chuyển thì Pajero Camel Trophy Edition lại sử dụng phiên bản trục cơ sở ngắn.
Đặc điểm nổi bật của phiên bản này là toàn thân xe được phủ màu vàng mù tạt đại diện cho Camel, trang bị tời PTO, bộ dụng cụ hỗ trợ như xẻng, giá nóc, và một con dao đi rừng đặc biệt. Tuy nhiên, chỉ có 150 chiếc được sản xuất nên nhiều người hâm mộ đã sử dụng chiếc Pajero bản trục ngắn (Pajero cộc) để chế lại, hiện tại các trang bị phụ kiện bởi các đơn vị cung cấp OEM vẫn có thể tìm thấy đâu đó, mình nghe nói cũng còn khá nhiều.
Pajero 2nd generation (1991)
Pajero thế hệ thứ 2 được Mitsubishi thiết kế lại và ra mắt tháng 1/1991, thế hệ này có khá nhiều thay đổi và nâng cấp. Đặc biệt là các trang bị lần đầu tiên có trên chiếc xe dẫn động bốn bánh của Nhật Bản như hệ dẫn động 2 cầu nổi tiếng Super Select 4WD (SS4), ABS đa chế độ, hệ thống giảm chấn điện tử.
Sự đột phá ưu việt của SS4 là khả năng tùy chọn kết hợp cầu giữa hệ dẫn động bốn bánh bán thời gian và toàn thời gian là: dẫn động cầu sau 2H, dẫn động 4 bánh toàn thời gian 4H, dẫn động 4 bánh khóa vi sai trung tâm 4HLc, hai cầu chậm khóa vi sai trung tâm 4LLc. Ngoài ra, hệ thống này của thế hệ thứ 2 còn cho phép xe chuyển cầu từ dẫn động cầu sau sang dẫn động bốn bánh toàn thời gian khi đang chạy với vận tốc lên đến 80km/h mà không cần phải dừng xe.
Ở phương diện khác, hệ thống ABS đa chế độ cũng là một cải tiến tương ứng vì mỗi chế độ khóa vi sai cần một chế độ phanh tương ứng. Hơn nữa, nó được cân bằng lực phanh khi xe chở nặng hơn nhờ các van cân bằng tải trọng lò xo trên bộ vi sai.
Bộ giảm chấn điện tử mới cũng có 3 chế độ: S (mềm), M (trung bình), H (cứng), giúp cho người lái thuận tiện hơn trong việc điều chỉnh chế độ trên bảng điều khiển tùy thuộc vào điều kiện đường sá.
Tháng 7/1993 Pajero được nâng cấp với hai dòng động cơ mới 3.5L 24 valve DOHC và động cơ dầu tăng áp 2.8L.Năm 1996 dòng động 3.0L V6 được chỉnh sửa, vẫn giữ nguyên SOHC nhưng đổi sang 24 valve.
Tháng 10/1997 Mitsubishi giới thiệu Pajero Evolution, một phiên bản xe đua chuyên dụng được phát triển đặc biệt nhằm đáp ứng tiêu chuẩn hạng T2 cho giải đua Paris Dakar. Trên phiên bản này được trang bị động cơ 3.5L DOHC v6 24 valve cùng hệ thống van biến thiên điều khiển điện tử MIVEC (về sau trở thành một tiêu chuẩn của Mitsubishi). Ngoài ra nó còn được thiết kế hệ thống treo độc lập hoàn toàn mới, đây là nền tảng để phát triển Pajero thế hệ thứ 3.
Mặc dù là chiếc xe có nhiều tính chất thể thao địa hình nhưng thế hệ Pajero thứ 2 được thiết kế mềm mại tròn trịa hơn, thân thiện với đường phố hơn.
Tại Trung Quốc, Pajero rất được ưa chuộng, nhiều công ty liên doanh đã sản xuất dòng xe này và thương mại với nhiều cái tên khác nhau. Ngoài ra có một biến thể rất khá có tiếng có tên gọi là Leopaard (Liebao) được sản xuất bởi công ty Trường Phong (GAC Changfeng)
Pajero 3rd generation (1999)
Thế hệ thứ 3 được ra mắt thị trường nội địa Nhật vào năm 1999, sau đó bắt đầu thương mại vào cuối năm 2000.
Sau khi thế hệ thứ 2 chấm dứt sản xuất (ngoại trừ các ngoại lệ liên doanh), thì Pajero thế hệ 2 có một ồn ào ngoài mong muốn năm 2002, thành viên Left Eye của nhóm nhạc TLC thiệt mạng do tai nạn trên đường cao tốc ở La Ceiba, Honduras khi đang chạy trên chiếc Montero thế thệ 2. Đáng tiếc là lúc này Pajero thế hệ thứ 3 đã có một cải tiến về hệ thống khung gầm liền khối (unibody) cấu trúc dạng thang, tăng độ cứng chống vặn xoắn và gia cố khoang cabin. Hệ thống gia cố RISE của Mitsubishi tạo sự kết hợp giữa khung gầm và thân xe, đảm bảo tính toàn vẹn cấu trúc trong các vụ tai nạn lật xe hay gặp trong quá trình thay đổi địa hình, và hoàn toàn không bị ảnh hưởng bởi tải trọng.
Ngoài ra, thiết kế của xe thấp và rộng hơn, bình xăng được di chuyển giữa trục trước và trục sau để cải thiện sự phân bổ trọng lượng, gia tăng độ cao gầm ( thường gọi là khoảng sáng gầm xe).
Hệ thống Super Select 4 cũng được nâng cấp lên thành Super Select 4 II với hệ bánh răng hành tinh, và hoàn toàn điều khiển điện tử, nghĩa là không cần vào số để chuyển chế độ. Bên cạnh đó, Pajero còn cung cấp ba lựa chọn hộp số: hộp số sàn năm cấp, hộp số tự động INVECS-II bốn cấp và hộp số tự động INVECS-II năm cấp.
Và thế hệ thứ 3 của Pajero cũng đã dành được 7 lần chức vô địch trong cuộc thì Dakar Rally từ năm 2001 đến năm 2007
Pajero 4th generation (2006)
Pajero thế hệ thứ 4 được ra mắt tại Paris motor show ngày 30/9/2006. Về mặt thiết kế thế hệ này cũng thay đổi với đường nét cong nhiều hơn, cơ sở thiết kế mang nhiều nét của bản Pajero Evolution.
Tuy vẫn mang hệ thống khung như thế hệ trước nhưng Mitsubishi cũng đã có những cải tiến giúp hoàn thiện xe tốt hơn. Xe được trang bị túi khí giai đoạn kép cho hai ghế trước cùng với các túi khí hai bên.
Pajero thế hệ này trang bị thêm hệ thống Kiểm soát lực kéo, và hệ thống ổn định chủ động (ASTC) được cải tiến phân phối lực phanh điện tử, khoảng sáng gầm xe 22cm, độ sâu lội nước 70cm. Trục truyền động phía sau bọc sợi carbon, nắp ca-pô bằng nhôm để giảm trọng lượng.
Động cơ cũng được nâng cấp với hai tuyf chonj: động cơ diesel 3.2L, công nghệ Common Rail, DPF để tạo ra khí thải sạch hơn và sản sinh công suất 168hp; Động cơ V6 3.8L có điều khiển van biến thiên MIVEC để tăng công suất lên 247hp, nhà máy khuyến nghị sử dụng xăng RON 95. Cả hai động cơ đều đạt tiêu chuẩn khí thải Euro IV.
Trong những năm tiếp theo, Pajero thế hệ 4 cũng có nhiều cải tiến về mặt công nghệ và trang bị hiện đại hơn. Tuy nhiên, thị trường Nhật Bản đã dừng thương mại vào tháng 8/2019 với “phiên bản cuối cùng” (Final Edition), và phiên bản này chỉ được sản xuất 700 chiếc. Tại một số thị trường khác trên thế giới tuy vẫn đang còn được thương mại nhưng việc sản xuất cũng đã ngưng hoàn toàn vào tháng 3 năm 2021.
(Tổng hợp)